FullHouse.yforum.biz
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

FullHouse.yforum.biz


 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share

Chiều sương - Bùi Hiển

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
#
Nấm_Njo
Nấm_Njo
SMod
SMod
Nam Bài gửi : 1224
Tài Sản : 1000
Thanks : 65
Chiều sương - Bùi Hiển

Chiều sương
Tác
giả: Bùi Hiển


Vào một chiều trung tuần tháng giêng, chàng
trai ấy lang thang trong
những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích,
hồn lặng thấm cái êm ả
lắng tự vòm trời trắng hơi biêng biếc như
giát bạc, cái êm ả của những
cuối ngày thôn dã. Chàng đi và nghĩ đến
trăm điều vu vơ, những ý nghĩ
thoáng qua trong trí rồi vỗ cánh bay
đi, như những con bướm đa tình vội
hôn đóa hoa này để đến với hoa
kia.

Chàng đi lơ đãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ
mà chàng
không biết. Sương bạc đã tỏa rất nhanh, một cách bất ngờ.
Thấy ẩm lạnh
trên đầu và có hơi nước đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác
nhìn lên.

Cảnh vật, như dưới một đũa tiên mầu nhiệm, đã tan biến
trong giây phút.
Chỉ còn trơ lại quanh mình những nét thâm thâm của
vài nhánh cây khẳng
khiu và những vuông xám mờ của các túp tranh.
Những bụi xương rồng và
râm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng
ánh, xanh tươi lại. Vài mạng
nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát
như dệt bằng những sợi tơ bạc li
ti.

Trời không lạnh lắm,
nhưng hơi sương ngấm vào mình; chàng trai lẳng
lặng trong tâm hồn
buồn, cái buồn tê tái và mang mang, cái buồn ôm
trùm, như kết bằng
những sầu thảm nào mơ hồ và đã xa xôi lắm, tưởng
tượng hay là thực,
chàng cũng không biết nữa. Hơi ẩm đọng trên mi,
chàng tưởng nước mắt
rưng rưng.

Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương bay
từng luồng, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi.

Những
tiếng người trao đổi trong sương, như gần như xa, lãng đãng.
Ngoài
sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài sửa soạn ra khơi: sương mù đã
tới
báo mùa cá thụ Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lão
đang
ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình quàng trong một
manh
chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh lấy cổ, thứ áo tơi và áo
rét
của dân chài.

Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dáng điệu giản dị
của những người
chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi trên phản.
Chàng hỏi:

- Cố (#1) không đi biển à?

- Không, chú ạ. Già
rồi, không năng đi được nữa.

- Cố kể chuyện đi chài nghe đi.

Chàng
nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đứa cháu vòi bà. Chàng thường
đến
đánh bạn với lão chài, và ông lão, đối với chàng trai mới lớn, có
một
tình yêu thương che chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình yêu
thương
mà tất cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:

- Còn
chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết cả chuyện của tôi rồi.

-
Không... Cố phải kể đi... à, cố kể chuyện ma đi. Cố đi chài có bao giờ
gặp ma không?

Lão Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậu nhuốm vẻ độ
lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.

- Chuyện ma à? Tôi cũng
ít khi thấy ma lắm... Có vài lần thuyền neo
ngoài khơi, tôi ngồi câu
đêm, thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. ái
chà, sao nặng khiếp. Mà
lạ, chỉ thấy nặng thôi, như có tảng đá trì giữ
lại, chứ không thấy
giật giật vùng vẫy như con cá tọ Tôi nghĩ thầm:
khéo lại cái nố ta
(#2) rồi, hắn muốn trêu mình đây... Quả nhiên! Tôi
vừa kéo câu lên
khỏi mặt nước, thấy hắn xòa một cái, xanh lè cả nước
biển, mình hết
hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn còn nguyên.

Đó, tôi chỉ gặp
vài lần như vậy thôi. Đêm khuya lạnh lẽo, vắng vẻ, chắc cụ buồn tình,
bày chuyện phá mình tí cho vui.

Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi,
trời êm biển lặng, mọi người đang neo
ngủ, thấy các chú bơi lù lù
rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn
thuyền; họ nói: "Thôi mà, anh
em mình cả, trêu nhau làm gì?", thế là cả
bọn nhảy sùm xuống, bơi
đi.

Mồ ma ông cụ Bình khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới
về, qua
dưới cây đa trước miếu, một bầy hắn bíu lấy taỵ Không thấy
người đâu,
nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá. Ông ta đáp: "Chà,
xin với xỏ,
được mấy con cá về cho vợ con đây!". Thấy nhẹ trong rổ,
sờ vô thì cá đã
biến mất. Ông ta nạt: "Đồ quỷ, cứ nghịch thôi!". Thế
là tiếng cười bật
lên ríu rít, hồi sau lại thấy nặng rổ.

Lão
chài kể như vậy, giọng bình thường như nói chuyện người dương gian
(#3),
tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng
mình
thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ; chắc chắn đó chỉ là điều
huyễn
tưởng (#4), nảy sinh từ một khung cảnh, một tâm trạng nào đó;
nhưng
có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hòa của ông lão!
Trong
ý nghĩ lão chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rõ
ràng,
cõi sống và cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của
những
người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng lẽ trên
mạn
thuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm cuộc đời, vì cảm thấy
lòng
biển quá mênh mông, lạnh lẽo. Và tuy đã tìm thấy cái chết trong
tai
ương (#5), bi thảm và dữ dội, không phải bao giờ hồn họ cũng ngậm
giữ
oán hờn; họ còn biết nghịch ngợm đùa trêu người sống, và chàng trai
tưởng
nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười giòn ríu rít của những
cái
bóng vô hình cạnh cây đa già miếu cổ...

- Có bao giờ người ta
thấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không, cố?

Chàng
trai lại cất tiếng hỏi.

- Thuyền ma à?... à... có một lần, đã
lâu lắm, chính mắt tôi thấy. Hồi
ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai
dưới thuyền mồ ma (#6) ông Phó
Nhụy... Ờ cũng trời sương mù mịt như
thế này, thuyền thì vừa tháo tố
xong, thoát nạn chết này lại đâm liền
vô nạn chết khác.

Bữa đó thuyền ra lạch...

*

* *

Sáng
hôm ấy, một buổi sáng thanh quang. Bình minh giát ánh vàng trên
những
dải mây bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đưa chèo theo nhịp đều
đặn,
ngước nhìn trời, lòng không ý nghĩ, không lo lắng. Nhưng khi
thuyền
chạy ngang nhà Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít
chèo
bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi người chửi rủa chúng ầm ĩ; dân chài
rất
kiêng bị "ngáng đường" như thế, và ông lái hơi nhăn trán lại.

Ra
khỏi lạch (#7), thuyền kéo buồm bắt cơn gió tây nam chạy thẳng ra
khơi.
Chiếc thuyền, dáng hơi nặng nề, lừ đừ tiến, hai mắt tròn trân
trân
nhìn về trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy rồi đâm chúi
xuống,
làm tung tóe một làn nước bạc xóa. Càng xa bờ, sóng càng bớt
mạnh,
chỉ còn là những cái lượn, lưng cong và rộng, kéo lừ đừ nhưng
hùng
cường. Những mảnh nước lớn thốc vào dưới mũi thuyền khiến bọt
trắng
tóe, rồi tự rẽ đôi chảy róc rách hai bên mạn. Các bác chài đã gác
chèo
ngồi bện dây neo, quai chèo hay tán chuyện, có vẻ không biết đến
sự
nhồi lắc của sóng.

Gió lên lồng lộng, thuyền chạy phăng phăng, để
lại sau một vạch phẳng
lì, vì nước đã bị khối nặng của thuyền dàn
ra. Nhưng chẳng bao lâu,
những làn sóng lô nhô hai bên mép tiến vào
và xóa mất vạch phẳng.

Càng xa bờ, gió càng mạnh, như dậy từ bốn
phương của khoảng rộng. Nắng
vàng và gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng
bóng, biển biếc ngả sang mầu
lục.

ông Phó Nhụy, nhà nghề và
chạy lái, ra lệnh bỏ neo (#nini6. Đoạn người ta
tháo dây neo cho thuyền trôi
tới gần chỗ đã thả bóng hôm trước. Bóng là
một cái lồng tròn lớn và
đan thưa, thả lưng chừng nước, trong có lót lá
tre làm chỗ êm mát rủ
cá lội vào. Cạnh bóng, người ta cột vài ba cây
gầy, một loại tre vầu.
Cá tìm thấy ở đó một nơi nghỉ tới nhóng xung
quanh, có khi hàng đàn
lớn.

Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới,
trong khi
thuyền, dưới mái chèo, nhẹ tiến tới. Sau một lát chờ đợi,
thuyền lùi
lại và hai bác, có thêm người trợ lực, kéo dần lưới lên.
Những con cá
mắc đầu vào mắt lưới, giãy đành đạch làm lóe những ánh
bạc biêng biếc.
Vài con cá nhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn
những hạt tròn
nhớt và trong, mà người ta gọi là trứng nước. Bình hồi
ấy còn là một
chú trai quèn, túm từng mảng lưới hất mạnh cho cá bật
vào rổ rồi đổ dần
cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanh mặn
và man mác, mùi của
biển cả. Những con cá trích, cá đốm, lẫn cá thu,
cá hồng, mắt tròn mở
trân trân, há miệng méo xệu một cách tuyệt vọng
cố hớp không khí, trong
tiếng lách tách của vây cứng.

Thuyền
nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng. Chú Trai đã đi thổi cơm.
Xế
trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm gỗ, lỏn thỏn hai bát cá đầy

một bát muối; cạnh mâm, một rá cơm và một xanh canh cá. Cơm xới
trong
bát đầy có ngọn, các bác chài và rất nhanh như chèo đua cho chóng
xong
bữa. Chợt một bác kêu:

- Nhìn kìa!

Và chỉ ra phía bên
trái, chỗ mặt nước lăn tăn báo có đàn cá đi quạ Mọi
người vội vàng bỏ
đũa, kẻ chạy đến chèo, kẻ chạy đến lưới.

Họ mê mải trong công
việc trong khi trời đã ngả về chiều. Mặt trời, lúc
còn ba con sào,
bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên và kêu:

- Coi kìa!
Trời đổ ráng ngoài.

Mọi người nhìn theo, lo ngại. Ông nhà nghề,
hơi rụt đầu trong cổ béo, quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:

-
Sắp có tố (#9) đến nơi!

Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể lầm
lẫn. Trời đã đột ngột đổ ráng
ba phương đỏ rực: ráng ngoài, nơi chân
trời, và phía trong bờ, hai ráng
Lò (Cửa Lò), ráng Cương (Cương
Gián). Mặt các bác chài đỏ cháy lên
trong ánh phản chiếu. Ông nhà
nghề ra lệnh:



- Kéo lưới lên! Giương buồm!

Chân
người chạy trên sạp rầm rập. Các bác chài co chân đu mình trên dây để
kéo buồm, miệng "dô hò" lấy nhịp. Một bác hỏi:

- Gió gì?

Người
khác đáp:

- Gió trong. Khó tháo kịp.

Gió từ bờ thổi ra,
thuyền cố vát (#10). Sóng vùng lên, cuốn, réo, đuổi
dồn nhau, va vào
nhau tóe bọt, ngụp xuống, trồi lên, đã thấy một sức
mạnh hỗn độn và
bất ngờ trong gió vừa cuồng lộng (#11) thổi. Buồm vát
không ăn gió,
xương buồm đánh cành cạch lên cột, có khi cọ vào gỗ rít
ghê tai. Hình
như thuyền trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để lấy cữ, ông
Phó Nhụy
kêu:

- Mưa đến rồi!

Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng
bệch, mặt sóng trong kia thâm sẫm
lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh
phát thành tiếng ào ào, một giây sau,
các bác chài, ngồi co mình
trong tơi chiếu, đã vuốt mặt không kịp.

Một bác bảo:

- Bỏ
neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế cho mà coi.

Neo
buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt xuống vùn vụt, thuyền trôi
lùi
về sau, đoạn giật nảy mình, chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta
hạ
buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ
bị
buộc. Sóng đánh té tát, khi mũi thuyền chúi xuống thì vội thừa dịp
nhảy
chồm, nước tóe trang lang đến tận sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền
rấ
khỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt, chờ mảng nước khác. Ông nhà
nghề
nhảy tới ngồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa.
Những
giọt nước lớn ném vào mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng da.

Một
lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc từng mảng lớn, thuyền dốc
đứng
tưởng như cứ thế mà đâm thẳng xuống đáy sâu như một cái dùi. Các
bác
chài, miệng há ngờm ngợp vì bị nước đánh tối tăm mặt mũi, rời chỗ
vịn,
lăn trên sạp lông lốc. Ông nhà nghề bị ngụp trong mảng nước. Không
trì
hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ cao con
dao
rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con thuyền hết ràng buộc
quay
mình trôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảy đến đầu mũi giúp sức
ông
nhà nghề hất xuống nước cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt
cánh
gỗ đi. Không còn cánh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền
đáy
biển như một hòn sắt nặng. Như thế, thuyền không bị giằng lại, mà
cũng
chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.

Nhưng gió vun
vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào mặt dày đặc thêm,
sóng giận dữ
gầm réo, nổi lên như núi. Mặt người nào người nấy tái mét;
tuy có tơi
che, quần áo họ ước mềm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi
thấm nước
rách toạc nhiều chỗ. Chú Trai, lúc nãy bị sóng đánh lăn xuống
khoang,
ở luôn dưới ấy tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam (#12). Hai
bác
chài tới giúp sức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để trút ra
ngoài.
Thuyền giằm, ít bị nhồi lắc, nhưng sóng dễ tràn lên; nước trong
khoang
nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh. Theo lệnh ông lái, người ta xúc

đổ bớt ra ngoài; nhưng sóng biển, trong một hằn thù mai mỉa, đánh
vào
thuyền, trả lại. Những con cá đập lên áo các bác chài và nằm trắng
ràn
rạt trên sạp, chờ một ngọn sóng tràn qua liếm đi và thay bằng lớp
khác.
Thuyền nhẹ bớt, nổi hơn, nhưng vì thế lại làm mồi thêm cho gió,
trôi
phăng phăng. Người ta bèn xở buồm (#13), buộc dây vào bốn góc, rồi
thả
xuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu lèo
(#14)
đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho
thuyền
bớt trôi.

Đoạn, mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa dội,
sóng nhồi, gió
táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối
ăn loang khắp
không gian. Ông nhà nghề bảo:

- Anh em ai có
đói, bốc nhúm gạo mà nhai.

Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu
mình, run run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt.

Chừng quá
nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, và không còn một ý niệm nào về
thời gian -
sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần, nhưng mưa vẫn
rơi liên
miên. Con thuyền mệt nhọc xang đưa (#15) lừ đừ. Và khi một ánh
trắng
xám ló nơi chân trời, thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai còn
đầy
cái huyên náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ
sức
để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút hầu như làm tê
liệt
các bắp thịt.

Mầu trắng sữa liếm dần bóng tối của vòm trời, và
mưa đã ngớt hẳn. Nhưng
trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến - dân chài bảo
từ Thủy phủ (#16) đùn
lên - một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và
hơi lạnh thấm thía.
Người ta kéo cái neo sắt lên, đẽo cánh mới lắp
vào, rồi neo thuyền cho
đứng yên. Mỗi người góp một câu để đoán vị
trí của thuyền. Họ chắc ở
ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão, gió
chướng (#17) thổi từ phía tây
nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không
ai đoán được. Một bác chài đo
được hơn năm mươi sải nước và họ biết
là đã bị giạt ra ngoài khơi xa
lắm.

Đột nhiên, không ai bảo
ai, tất cả im lặng: họ vừa ngửi thấy một mùi kì
dị, một mùi nhạt và
ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen
dài hiện trong
sương, phía trước mặt. Một người đoán:

- Chết, mình trôi đến cồn
đá. Ra nãy giờ neo rê.

Một người khác đáp:

- Neo rê thì
biết liền chứ. Đó là cái thuyền, nhìn kỹ mà coi.

Quả nhiên trong
sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, trên đó
lố nhố những
bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như
thuyền lướt
trên biển dầu. Một bác chài bắt loa miệng hỏi:

- Ai đó?

Thuyền
bên kia có người đáp:

- Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông
Phó Nhụy bên ấy không?

ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:

- Tiếng
ai nhỉ? Nghe giọng lạ gớm. Mà sao họ biết thuyền mình?

Đoạn cất
cao tiếng:

- Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa tháo tố đó
phải không? Có biết đây là đâu không?

Bên kia đáp:

- Ngang
Cương Gián. Giờ phải đi xế lên mà vô lạch.

Trên thuyền ông Phó
Nhụy, người bàn cãi lao xao. Gió thổi từ phía nam,
sao thuyền lại
giạt xuống ngang Hà Tĩnh được? ông Phó Nhụy lại hỏi to:

- Sao mà
biết?

Bên kia có một câu trả lời kì quặc và bí mật:

- Sao
lại không biết... à kìa, nồm vừa thổi đó, ta bắt ngọn gió này mau mà lên
lạch.

Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương buồm. Chẳng
hiểu sao họ
làm nhẹn và lặng lẽ được đến thế. Ông Phó Nhụy, tuy bụng
phân vân, sai
kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và
còn in dấu vết sự
hãi hùng vừa qua, người ta không muốn rời bỏ bạn
đồng hành đã gặp tình
cờ.

Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập
phần phật. Sương tạt từng luồng như
một cơn mưa trắng. Thuyền đi
trước vẫn chỉ nom thấy dáng mờ mờ ảo ảo
như trong giấc mơ, với quãng
cách không thay đổi.

Chợt chú Trai kêu:

- Có ai như người
trôi kìa?

Một bác dùng sào khều cái vật trôi lềnh bềnh đen thui
và nói:

- Người thật.

Họ cúi vớt người kia lên. Tay anh ta
co quắp còn cắp chặt trong nách
một cái chèo ngắn; mặt anh ta tái
nhợt, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng
cắn khít.

Một người bảo:

-
Hà hơi, hà hơi đi, hình như còn thở thoi thóp.

Từ bên kia thuyền
Xin Kính, tiếng người hỏi:

- Vớt được ai đó?

Mọi người
cúi nhìn tận mặt kẻ bị nạn, nhưng không nhận ra ai. Mặt anh
ta co rút
nhăn nhúm đến nỗi đã méo dệch hẳn đi. Chú Trai góp ý kiến:

-
Giống như anh Hoe Chước.

ông Phó Nhụy nói to sang thuyền kia:

-
Hoe Chước!

Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Sao thế được nhỉ? Hoe
Chước đi bạn (#18) trên thuyền ông Xin Kính kia mà? ông hỏi to:

-
Có Hoe Chước bên ấy không?

Thuyền bên kia có một im lặng kì
quặc. Chú Trai, thính tai nhất trong
đám, nghe như bên kia đang bàn
cãi gì láo nháo. Chú bỗng kêu lên:

- Ô kìa, đâu mất rồi?

Thuyền
ông Xin Kính vừa biến đi, như vụt chìm xuống đáy biển. Cái bóng
cả
thuyền lẫn buồm, đen nhờ nhờ, chỉ còn để lại một khoảng trống không
trắng
toát, khoảng trắng ấy nhòa dần vào màu sương phơn phớt xám. Trên
thuyền
ông Phó Nhụy, mọi người câm lặng, tim bóp chặt trong một lo âu
ghê
rợn, mở to mắt nhìn trân trân.

Chú Trai lại kêu:

- Có
tiếng gì om om lạ gớm?

Cùng một lúc, tất cả ai nấy đều nhận ra
quả có tiếng sóng đánh phòm
phọp âm âm như vỗ vào hang hốc. Ngay
trước mặt, một khối to đen đồ sộ
vụt xuất hiện, chỉ cách thuyền vài
chục thước. Tức thời, ông lái nhảy
bổ tới, túm lấy lèo, giằng riết.
Chiếc thuyền quặt mũi về bên trái, có
một phút do dự rồi tiến theo
ngả mới. Các bác chài vội chạy đi tra
chèo, ráng sức chèo tới. Cái
khối đen mờ dần trong sương, rồi biến đi.
Ông Phó Nhụy thở phào:
thuyền ông vừa suýt đâm phải núi đá.

Khi thuyền ông Phó Nhụy, sau
một buổi chạy vờ vật ngoài khơi, lần về
tới lạch, thì anh Hoe Chước
hơi tỉnh. Anh kể rằng trong cơn bão, thuyền
ông Xin Kính bị sóng đánh
giạt vào núi đã vỡ tan tành, và có lẽ chỉ
mình anh sống sót, vì đã
vớ được một cây chèo nhảy trước xuống biển.
Những người kia, sau đó,
nếu có nhảy khỏi thuyền cũng đã muộn và bị
sóng quật vào lèn đá (#19)
đến rã xương.

Vợ họ nay vẫn sống trong góa bụa - có người đã
chết. Và cái hy vọng
mong manh một ngày trở về của người thân cũng đã
tắt trong họ từ lâu.




Chú thích:

(1-) Cố: tiếng dùng gọi người già.

(2-)
Cái nố ta: lũ chúng.

(3-) Dương gian: cõi dương (đối lập với cõi
âm), thế giới người sống.

(4-) Huyễn tưởng: mơ tưởng, ý tưởng
viển vông, không có thực (gần giống như ảo tưởng).

(5-) Tai ương
(như tai họa): điều rủi ro, gây nên tổn thất, đau khổ lớn.

(6-)
Mồ ma: thời còn sống của một người nào đó đã mất.

(7-) Lạch:
đường nước chảy hẹp, thông ra sông, biển.

(8-) Neo: vật nặng buộc
vào dây thả chìm dưới nước để giữ cho tàu, thuyền đỗ lại, không trôi.

(9-)
Tố: gió mạnh đổi chiều đột ngột xảy ra trong cơn giông.

(10-)
Vát: lệch, xiên chéo.

(11-) Cuồng lộng: gió thổi điên cuồng ở nơi
trống trải.

(12-) Mu sam: mu con sam, cứng và lõm, có thể dùng
làm gầu múc nước.

(13-) Xở: gỡ; xở buồm: gỡ buồm.

(14-)
Lèo: dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều khiển buồm.

(15-)
Sang đưa: đưa qua đưa lại; đung đưa.

(16-) Thủy phủ (như thủy
cung): nơi ở của thủy thần, Long vương.

(17-) Gió chướng: gió
ngược, thổi từ phía tây.

(18-) Đi bạn: người đi làm thuê cho vụ,
việc.

(19-) Lèn đá: núi đá có vách dựng đứng.


Chiều sương - Bùi Hiển

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Similar topics

-
» Diện soọc để ăn gian chiều cao
» Chiều Xuống - Thủy Lâm Synh
» kid tự sướng...........
» Hiệu ứng sương mù
» pé po...yk học nhưng zài piz tự sướng..hô hô

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
FullHouse.yforum.biz :: Thư viện_[F]ull [H]ouse :: Thư viện truyện_[F]ull [H]ouse :: truyện ma_[F]ull [H]ouse-
Chat ( )
Create a forum on Forumotion | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất
Sử dụng mã nguồn vBulletin® Phiên bản 3.8.7
vBCredits I v. 1.5.1 Gold ©2001-2010, PixelFX Studios Ltd.
© 2011 - 2012 Nhóm phát triển website: Cộng đồng giới trẻ Nghệ An.
Phpbb2 - Forumotion!Rip Skin by cubimtq