FullHouse.yforum.biz
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

FullHouse.yforum.biz


 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share

Bóng ma trường áo tím

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
#
Nấm_Njo
Nấm_Njo
SMod
SMod
Nam Bài gửi : 1224
Tài Sản : 1000
Thanks : 65
Bóng ma trường áo tím

Thái ngóc đầu lên để vói rút khăn lông trên đầu giường đặng che
mặt mà ngủ, vì đèn chong nóng quá.
Rút khăn xong, anh thả rơi đầu
xuống thì nghe một cái cộp, rồi lại nghe anh ta la : “ Ui cha ! “

mấy chiếc giường hai bên, ngườI ta rúc rích cười. Anh đã bị bạn kế
giường
rắn mắc ăn cắp gối lúc anh ngóc đầu lên . Tên ăn cắp là Ngư .
Ngư hô
:
- Nè chụp nè ! Rồi liệng gối Thái theo đường vòng cầu. Gối bay
ngang
mình Thái rồi rơi qua giường bên kia. Nguyên đưa tay sẵn để
hứng lấy
rồi dồi gối qua cho Thoại bên cạnh , y như người ta chơi
bóng rỗ.
Gối chuyền tay mà bay từ giường này đến giường khác , Thái
rượt theo
mãi mà không kịp. Rốt cuộc anh đành trở về giường, cuốn mền
lạI kê đầu
mà nằm.
Những người chơi cái trò trẻ con trên đây toàn
là ngườI lớn cả, trên dưới bốn mươi tuổi đầu.
Đó là những thầy giáo ở
tỉnh , nhân dịp bãi trường về Sàigòn theo học các lớp tu nghiệp tại
trường Gia Long.
Tất cả, ngày xưa đều là lưu trú học sinh ở một
trường trung học nào đó ở miền Nam.
Cuộc sống chung trong mùa tu
nghiệp năm nay bỗng dưng gây lại cái không
khí mười mấy năm về trước
với những dãy giường sắt ngay hàng thẳng lối
, với trống điểm giờ ăn,
giờ tắm, giờ nằm, vớI bóng đèn chong màu xanh
xanh tỏa ánh sáng
trăng nhơn tạo xuống những chiếc mùng rung rinh mà
trong đó các cậu
thiếu niên mơ những mộng đẹp ngoài đời.
Ôi, cái đời lưu trú năm xưa,
xa lắm rồi mà nghe sao như là mới hôm qua này thôi !
Ôi, những cái
đầu, tóc còn dưỡng rẽ, ôi những chiếc tủ đầu giường thơm
mùi thuốc
rệp mà trong đó bao thiếu niên mơ mộng đã xếp kỹ những bức
thư xanh,
những bức thư tím, những bức thư hồng, cũng như họ đã ủ kín
trong
lòng non dại của họ niềm yêu bâng quơ tác giả các bức thư kia.
Ôi
,những gói bánh tổ bột gạo, đường hạ Biên hòa mà các cậu thiếu niên
gặm
mòn trong đêm tối như chuột gặm khoai, ôi những kỷ niệm xa xưa ,
nay
đã đâu rồi !
Ngày đầu vào trường Gia Long, ai nấy lòng cũng quặn
thắt đau, nghẹn
ngào xúc động mà nhìn những dãy nhà giống hệt những
dãy nhà của trường
Petrus Ký, trường Sở Cọp, trường Cần Thơ, trường
Mỹ Tho mà trong đó đã
nghỉ yên quá khứ của họ.
Làm sao không ngậm
ngùi được vì đó là nơi mà một khi kia trong đời họ,
họ đã hoài thai
nhiều mộng vĩ đại, đã mơ những giấc mơ tiên
Nhưng rồi sự học tập và
cuộc sống tập thể lôi cuốn họ vào một nhịp khắc khổ hơn nên họ tạm dẹp
tình cảm lại.
Nhưng họ vẫn cảm nghe họ trẻ lại đi mườI mấy năm, ham
nô đùa vớI nhau như lũ lưu trú học sinh ngày trước
Các thầy giáo hôm
nay cũng rắn mắc y hệt như cái bản sao của họ hồi tiền chiến
Khi
chiếc gối bay đến giường cuốI dãy thì anh Trung chụp rồI dộng vào
cửa
buồng một cái rầm nghe như vợ chồng ai đang đánh lộn vớI nhau
- Mấy
thằng dịch già này , không cho tao ngủ hở bây ?
Đó là lời mắng rất
hiền của một ông cụ bốn lăm. Mới bốn lăm mà ông ta ra vẻ cụ lắm
-
Thôi ngủ bây ơi, kẻo cụ giận không gả con cho thì chết đến sáu bảy
cửa
lận : cửa trước không ai đóng, cửa sau không ai gài, cửa túi rách
không
ai vá, cửa tủ tiền chạy ra không ai ngăn, cửa miệng không ai tiếp
tế
lương thực nè ……
Cả bọn cười xòa, và anh Hạc hát giọng tuồng :
-
Nhạc gia ơi ! Xin đó mựa đừng vội giận, đây nguyền nuốt hận làm im cho
nhạc gia ngủ đó a nhạc gia !
- Thùng ! anh Trinh đánh trống miệng một
cái nghe ngọt xớt
- Thôi phát nầy ngủ thật đa ! Dung nói
- Khoan,
để mổ ra câu đối, đứa nào đối được, sáng mổ bao ăn kem . Ráng nghe các
cha :
- Ngủ giả mà nói ngủ thật, là giả ngủ
- Xuất đối đi, đối đối
nan, thỉnh tiên sinh đối vậy
- Im !
- Đèn chong sáng quá làm sao
ngủ
- Trong Petrus Ký đó nghen tụi bây, hồi đó nó không chong đèn
bóng xanh
như ở đây, vì bóng xanh sáng lắm, học trò lén thức học, bỏ
ngủ rồi bịnh
cả đám. Biết nó làm sao hôn ? Nó chong bằng bóng trắng
mà ngoài sơn dầu
sơn xanh. Như vậy ánh sáng tốI hù, đứa nào ham học
thì bơ.
Có một bận đó nghen, tụi nó đòng đòng lên ba đứa như làm trò
xiệc ấy,
để lấy dao cạo dầu sơn. Quên nói là trường Petrus Ký khôn
lắm , nó rút
bóng đèn lên sát tận trên trần để mình phá không được.
Đang
cạo sột sột bỗng đâu thầy Su-quây-dăng mở cửa kiếng kêu cái bực mà
bứơc
ra, vì tụi ngoài này làm ồn như giặc, thầy ta chịu không thấu đời
quyết
ra chụp vài cậu phạt cho hả giận
Đám hát xiệc nghe nguy hoảng hốt,
anh kép ở dướI quăng anh kép đứng
giữa, anh kép giữa quăng anh kép
trên. Anh nầy, tao nhớ tên là anh
Gừng. Anh ta té cái rầm , năm bất
tỉnh nhơn sự , con dao đâm lủng tai
trái anh ta, máu ra linh láng.
Thầy
Su vừa bước ra, thấy vậy ngỡ anh ta chết, sợ chịu nhơn mạng, vội
thốI
trở vô. Vừa lúc ấy thì mùng cháy rần rần vì anh Ký thắp đèn cầy mà
học
, học mê không hay gì cả, đến chừng nghe cái rầm anh ta giật mình
hươi
tay đụng đèn ngã vào mùng mà gây hỏa hoạn.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi
áp nhau mà la mã tà chớ sao. Có thằng hô to “ Hỏa thiêu Hồng Liên Tự rồi
bây ơi ! “
Đêm ấy, nhà ngủ tụi tao rầm rầm như đám giựt giàn cúng
làm chay.
- Rồi anh Gừng có sao không ?
- Sau đó , anh ta hóa
thành thi sĩ.
- Lạ không ?
- Anh ta làm thơ như vầy :
Cạo đèn
bây học, lại quăng tao,
Nghĩ giận tụI bây , máu muốn trào
Hát xiệc
không lương , xương lạI gãy,
Thầy Su hoảng sợ, thích biết bao !
Chưa
chết mà bây châm lửa đốt,
Tao chẳng dân Miên, hỏa táng tao !
Từ
rày nhắn vớI quân ham học,
Vùi đầu vào sách sẽ ho lao

- Toàn
vần ao không mà thôi
- Phải, đó là anh ta cố ý, vì anh ta nói anh ta
đã bị nóc ao mà !
- Thôi bỏ mùng xuống ngủ các cha !
- TụI bây ơi,
mùng của mình vén coi có vẻ thất trận lắm ! Tụi áo tím
hồi đó tao đi
ngoài đường thấy chúng nó vén mùng khéo mà bắt thèm.
Chúng nó may
mùng trùm phủ ngoài trụ, rồi muốn vén, vo tròn lại từ lai
trôn vo
lên, như con gái thợ cấy xăn ống quần . Thật là tay con gái có
khác .
-
Các cô con gái áo tím dễ yêu hồi đó bây giờ đã hóa ra bà già rồi bây
ơi,
trời hỡi nè, đời ngườI sao mà thấm thoát , cô áo tím của tôi đã năm
con
bảy cháu rồi nè trời !
- Hu…..hu…..!
- Thùng !
- Các anh ơi,
sao mà nằm trên giường nầy, tôi nghe như hương thừa của ai còn phảng
phất đâu đây…..
- Giường cũ biết còn hay không ?
- Sao lại không .
Trường Gia Long là cái trường độc nhứt không bị quân
đội Nhật và
Pháp sung công thì cái gì cũng còn nguyên vẹn cả, trừ người
xưa. Kìa
cái cây dé ngựa ngoài sân, ngày xưa, cô áo tím của tôi chiều
chiều đã
dựa vào đó mà làm thơ.
Cây cối bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già,
đang chờ người đi mất tự ngàn xưa … Ngày nào tròn trăng lại nhớ…..
-
Có ai xuôi vạn lý , nhắn đôi câu…..
- Thùng !
- Tân cổ nhạc hằm bà
lằng, mại dô !
- Quỉ dịch, có để người ta ngủ hay không nè ?
Bấy
giờ chắc cũng đã khuya rồi, nên phần đông mòn mỏi và lời mắng cuối cùng
đã bịt miệng họ được .
Tuy nhiên, những người chưa ngủ vẵn lăn qua
trở lại hoài. Nhớ vợ, nhớ
con ở tỉnh nhà , hay nhớ một mối chinh phục
mớI ? Ừ, một dịp đi Sàigòn
y như là ngày kép núi hạ san và rất có
thể gặp đào giữa truông mây
Thầy giáo Lâu ngồi dậy định bước ra cửa
sổ dòm sao. Thầy giáo Niệm cận giường còn thao thức , thầy kéo bạn dậy
và nói nho nhỏ :
- Chưa ngủ à ? Ra đây hứng mát . Trời, tháng bảy mà
sao nóng nực quá ?
Giáo Niệm là tay làm ồn nhứt trường từ hổm nay,
không ai chịu nổi thầy
ta cả. Mỗi đêm thầy ta đều rủ các bạn tái diễn
cái trò kêu rệp ngày xưa
nghe muốn bể con rái.
Thầy gác , tiếng
Pháp kêu là Su-quây-dăng , nhưng hồi xưa học sinh lại kêu lầm họ là
rê-pê-ti-tơ và kêu tắc là Rệp.
Đêm đêm hễ thầy gác đi rình là họ kêu
than có rệp :
- Rệp mắc dịch ! Bò hoài sáng đêm !
Rồi họ đập
giường rầm rầm
Giáo Niệm nô đùa dữ quá , cười muốn bể cửa kiếng nhưng
ai tinh ý thì
thấy trong cái quá lố ấy có ẩn hiện một hơi hướng đau
thương, như là
sầu quá hóa điên, cườI ra nước mắt.
Nhứt là từ lúc
các bạn nhắc đến các cô áo tím cho vui thì thấy thầy ta ngậm câm, không
tham gia buổi tối vui nữa.
Tiểu tiết ấy không thoát khỏi mắt quan sát
của ngườI bạn thân giữa đường của giáo Niệm là giáo Lâu.
Còn một
điều lạ lùng nầy nữa là từ Phong Dinh ( Cần Thơ) lên để theo
học lớp
tu nghiệp Anh văn mà giáo Niệm không thèm học hành gì cả. Theo
chỗ dọ
biết thì ngày xưa thầy rất khá Ăng lê, mà đã quên hết rồi.
- Thì nay
học lại , chớ khó khăn gì đâu.
- Nhưng thầy ta như cóc cần học . Mỗi
lần bà giáo người Mỹ gọi đến thầy là thầy cứ trả lời độc một câu mà
thầy còn nhớ :
- I can’t speak English (1)
“ Tâm sự gì ? “ Lâu tự
hỏi thầm và ái ngại cho người bạn mới mà thầy rất mến.
Một người từ
Bình Dương xuống, một ngườI từ Phong Dinh lên, chơn trời
góc biển gặp
nhau, lại mến nhau như bạn thâm giao đâu từ thuở ấu thời.
Đôi bạn
thót lên ngồi trên đầu tủ com-mốt , rồi Lâu chỉ vòm trời đen lóng lánh
sao mà hỏi bạn :
- Giống cái gì ?
- Giống sao vàng rải trên hòm
sơn đen
- Ghê quá ! Sao anh lại nghĩ đến cách so sánh tang tóc như
vậy ?
- Có lẽ vì liên tưởng.
- Đến cái gì ?
Giáo Lâu đặt tay
lên vai bạn không nói gì, nhưng cử chỉ ấy hùng biện
biết bao ! Đôi
bạn thông cảm nhau một niềm thương mến sẵn sàng trao đổi
nhau nghe
tất cả cái gì ray rứt trong lòng họ.
Giáo Niệm cúi xuống nhìn sân
trường tối om, xa xa một vừng ánh đèn vườn làm nổi bật lên cây lá trong
một khoảng nhỏ….
- Trong cái im lặng bao phủ cảnh trường nầy, tôi bồi
hồi tưởng nhớ năm xưa ….
- Ngỡ gì, ai lại không như thế . À, hồi đó
anh học trường nào ?
- Petrus Ký
- Còn tôi thì học Sở Cọp. Trường
của mình nên thơ hơn trường này phảI
không anh. Thuở ấy, đêm tôi dòm
ra sở thú, lắng nghe tiếng thủ thỉ của
dân rừng bị nhốt…
- Còn tôi
thì đêm đêm dòm ra thành Ngã Bảy lúc đó còn là một cánh đồng
ma, để
xem đèn ma và nghe mấy chị bột khoai kêu mả tà. Ấy ,quanh trường
hoang
vắng nên tối nào cũng có cướp cạn.
- Còn ở đây lâu đài, dinh thự
nhiều quá, không đẹp gì hết.
- Tôi, tôi lại nghĩ khác. Tôi thấy ở đây
rất nên thơ vì có lẽ trường này dính líu đến tôi nhiều .
Giáo Lâu đã
thành công nhờ khôn khéo. Thầy ta biết nếu tra hỏi thì chắc
bạn
không chịu khai. Còn gợi chuyện thì tự nhiên việc nầy đưa đến việc
khác,
và đầu dây mốI nhợ sẽ được tháo tung ra.
Giáo Niệm đột ngột hỏi :
-
Anh có biết là tôi chưa vợ hay không ?
- Không , trời ơi, đã bốn
mươi hai rồi mà ….
- …… Mà còn cô độc, ừ. Tôi đi lên đây , mục đích
chánh là đi hành
hương. Hễ có dịp vào trường Gia Long là tôi vào,
không biết để chi,
nhưng không thể đừng được.
Trường nầy không
phảI cảnh cũ, nhưng có lẽ nó gợi nhớ nên tôi thích. Hễ
nhớ là đau,
nhưng lạI cứ muốn nhớ, nhớ hoài để nghe như nó còn mới
hoài, mới như
vừa xảy ra hôm qua đây.
Năm ấy tôi học năm thứ hai. Một hôm Chúa nhựt
ra chơi nhà ngườI chịu
trách nhiệm về tôi đối với nhà trường, tôi
gặp Oanh, trường áo tím,
cháu của nhà nầy mà tôi không dè.
Tôi còn
nhát gái lắm, nên bẽn lẽn một lúc rồi bỏ đi luôn.
TốI lại về trường
tôi mới thấy là tôi ngu quá. Bạn hữu trong trường đứa
nào cũng có bạn
gái ở ngoài cả chỉ trừ tôi thôi. Nhà quê không biết làm
quen với ai,
nay gặp dịp tốt lại trốn mất thì có ngốc quá hay không ?
Nhưng bây
giờ mà có bạo gan tuần sau ra đó để gặp cô ấy chắc cũng sẽ ú ớ , không
biết nói gì
Cô bé đẹp quá ! Áo tím làm nổi bật nước da trắng nõn của
cô và cái e lệ của cô sao làm tôi điếng người đi.
Bí quá, tôi lén bạn
hữu kéo anh Lưu ra góc sân và hỏi :
- Anh Chín nè, làm sao anh quen
với bạn gái ?
Lưu là một học sinh rất đẹp trai. Anh ấy lại biết làm
thơ nữa. Anh có
một tập thơ nhan đề là “ Anh Chín thi tập “, trong đó
anh sưu tầm thơ
của anh và của nhiều bạn gái của anh. Anh Chín là
biệt hiệu cà rỡn mà
bạn hữu gán cho anh và anh vui vẻ nhận lấy.
-
Cái đó tùy anh, Lưu đáp . VớI mỗI người, phảI mỗi cách. Cô ấy thế nào ?
Tôi
kể chuyện gặp gỡ cho anh nghe. Anh trề môi mà rằng :
- Anh thật là
thằng chúa ngục, anh trốn như vậy nó khinh anh rồI thì còn mong gì.
Tôi
khổ sở quá, và luôn hai ba Chúa nhựt không dám ra đó nữa.
Tuần ấy
tôi xáng bịnh: sốt rét rừng. Nhà thương cứu cấp ở trường gởi tôi vào nằm
điều trị trong Chợ Rẫy.
Thuở ấy công chức và học sinh đi Chợ Rẫy đều
nằm chung một trại , gọi là “ Nhà giàu I”.
Tôi được tiêm thuốc hai
hôm là hết sốt. Nhưng lệ nhà thương , sốt rét rừng cho nằm mườI lăm hôm.
Hôm
thứ ba tôi ra ngoài sân, lại gốc me ngồi chơi thì lạ quá, trên băng đá
dưới gốc me ấy , cô áo tím đang ngồi đan nón.
Tôi hoảng vía toan thối
lui để chạy vào trại thì cô ta thấy tôi, mỉm
cười chào tôi một cái.
Tôi quýnh lên, đỏ cả hai tai rồi ú ớ như thằng
câm.
Để cứu tôi, cô
hỏi :
- Anh vào nằm đây bao lâu rồi ?
- Dạ ơ….hơ …. mười lăm
Sợ
quá, đến số ngày cũng nói bậy .
- Em thì mớI có ba ngày. Anh bịnh
làm sao và nằm phòng số mấy ?
Bấy giờ tôi đã hoàn hồn, bước lại gần
băng mà đáp :
- Tôi nằm số bảy, trên lầu . Cô bịnh làm sao và nằm ở
đâu ?
Thì ra cả hai đều sốt rét. Cô ấy nằm số 25 dưới đất. Hỏi phăng
tới thì
biết cô cũng học năm thứ hai , ban sư phạm, và tên là Oanh.
Oanh
nói :
- Mấy tuần nay, em có ra luôn. Cậu em ngạc nhiên lắm mà thấy
anh không
tới. Cậu em nói anh học giỏI lắm, không lẽ lại bị phạt ở
lạI ngày Chúa
nhựt.
Không, không bao giờ cậu Oanh và Oanh biết lý
do vì sao tôi không ra cả.
Nhà thương Chợ Rẫy lúc ấy là nơi gặp gỡ
của lưu trú học sinh các trường
trung học ở Sàigòn. Vài mươi hôm hết
hạn , rồi lắm khi thân đến suốt
đời. Kỷ niệm chung cũng nhiều lắm.
Oanh
và tôi, cố nhiên, cũng trở thành đôi bạn . Đêm nào chúng tôi cũng
ra
hàng rào sắt đón chú giò chó quảy mua vài chiếc để ăn với sữa đặc
nhà
thương phát cho.
Cái thú ăn giò chó quảy to bằng cườm chân ở cửa Chợ
Rẫy, không anh học sinh tiền chiến nào quên được cả.
VớI lại cái thú
kéo nhau xuống nhà xác , rồI hù một tiếng, mạnh đứa nào đứa nấy chạy,
chạy đến vắt giò lên cổ.
Một bận Oanh chạy như vậy rồi vấp té , nhờ
tôi đỡ kịp. Không hiểu sao
kể từ phút đó chúng tôi không còn thẳng
thắn với nhau được nữa.
Ra nhà thương , tuần nào chúng tôi cũng gặp
nhau ở nhà người chịu trách nhiệm.
Ở đó, câu chuyện giữa chúng tôi là
câu chuyện học hành, là chương trình
đại số, là phản động hóa học,
là định lý hình học, chớ không còn là câu
chuyện trăng , sao thú vị ở
nhà thương.
Vì vậy, tôi cố tìm cách gặp Oanh nơi khác, đổi không khí
để tìm lại những ngày thần tiên khác.
Và chúng tôi đã tìm được.
Không
nói chắc anh hiểu ngay là chúng tôi yêu nhau. PhảI, nhưng con
ngườI
của chúng tôi đứng đắn lắm, nên chỉ yêu nhau suông vậy thôi, chớ
không
có gì tội lỗi hết.
Nhà cũng biết thế, nhưng tin chúng tôi lắm, nên
cũng chẳng rầy la gì,
mặc dầu nhiều chúa nhựt, chúng tôi rủ nhau đi
tuốt, bỏ cơm trưa. Tối
lại vào trường mới ăn.
Tôi hẹn với Oanh ra
trường sẽ xin làm thầy giáo để cùng nghề với vợ tôi cho tiện lúc đổi đi
nơi nầy nơi khác .
Và tôi đã giữ lời hứa. Nhưng vì chưa cướI nhau nên
Oanh được bổ đi Sóc Trăng , còn tôi thì Bà Rịa.
Tuy cách trở, mà thơ
từ qua lạI luôn. Oanh bị tang bà nội, nên chúng tôi chưa thành hôn với
nhau được.
Cứ mỗi ba tháng là tôi xin phép nghỉ, đi xuống thăm Oanh
một ngày !
Oanh vẫn yêu tôi như thường, có lẽ yêu hơn trước vì hễ
tình yêu chưa
toạI thì nó cứ càng ngày càng tăng.
Cả hai chúng tôi
đều nóng lòng đợi mãn khó tang bà và cùng dự liệu nhiều việc về tương
lai.
Như vậy được một năm. Còn có bốn tháng nữa là hết tang. Tôi nao
nức lắm
và vừa định xuống thăm bạn lần chót để thỏa thuận nhau về chi
tiết đám
cưới, thì bỗng được thư Oanh.
Oanh bảo tôi đừng xuống
nữa, giọng nhứt quyết lắm và hăm sẽ giận tôi
luôn nếu tôi cãi lời
Oanh. Oanh lại cho biết rằng đám cưới phảI đình
lại không biết đến
bao giờ.
Đọc xong thư, tôi đâm nghi. Tại sao nàng lại cấm tôi xuống,
và đòi đình
hôn lễ ? Có phải nàng đã yêu kẻ khác hay không ? Tôi ghen
tức lên , rồi
tôi đau xót không thể tả được.
Vài hôm sau, tôi
định cứ đi đạI xuống đó, xem cho biết sự thật. Thà là
phảI bật ngửa
ra mà thấy mình bị phụ tình, còn hơn là ngồi nhà mà xốn
xang, mà nghi
hoặc.
Nhưng tôi lại không đi, vì tôi hờn Oanh. Thôi, người ta không
thương
mình nữa thì thôi, đeo đuổI theo làm gì, Con ngườI bạc nghĩa
ấy còn
xứng đáng sao được mốI tình chung thủy của mình !
Thế rồi
tôi nín đi hai tháng . Tôi ốm xanh xao, và bỏ công việc đến nỗi bị ông
Thanh tra hàng tỉnh phê bình cảnh cáo mấy lần.
Không chịu được nữa ,
tôi gởI thư, gửi liên tiếp mỗI ngày một bức, hăm tự tử, dọa xuống thăm
nàng ,đủ thứ việc.
Nàng trả lời cũng liên tiếp và nói nếu tôi xuống
là nàng sẽ chết mất.
Rồi đùng một cái, đến tháng tư là tháng xả tang,
Oanh gởI cho tôi một bức thư vĩnh biệt. Tôi còn thuộc lòng bức thư ấy.
Anh
Niệm ơi !
Em đã chết rồi. Kể từ giờ phút anh được bức thư nầy thì em
không còn ở
trên đờI nầy nữa. Hay là em còn, mà không bao giờ anh
thấy mặt em được
cả.
Anh ơi, em ích kỷ lắm, rất muốn làm vợ anh
cho dẫu một ngày thôi, để thỏa tình em yêu anh từ bao lâu nay.
Nhưng
mà suy cho cùng , nghĩ cho tận, hưởng thụ ấy không ích lợI gì cho em cả,
mà hạI cho anh không biết bao nhiêu.
Vậy anh cứ xem là em đã chết
rồi. Dầu anh có lục lạo thế nào cũng chẳng
tìm được em đâu. Mà tìm
làm chi , nếu anh muốn mốI tình đôi ta cứ còn
chớm nở mãi mà không
tàn rụng bao giờ.
Nghĩ ra thì thái độ của em cũng do ích kỷ xui giục
mà có. Tránh ích kỷ
kia lạI phạm ích kỷ nầy. Đừng tìm hiểu, không bao
giờ anh hiểu được đâu.
Em đã khóc ra không biết bao nhiêu là nước
mắt khi quyết định điều trên. Anh có lường được niềm đau xót của em
không ?
Nhưng em là gái mà em đã can đảm được , thì anh cũng nên theo
gương em.
Đừng sầu muộn gì hết, cố mà quên đi rồI lập gia thất.
Trong đờI chắc
không thiếu chi ngườI đáng yêu hơn em, anh đừng có
lãng mạn lắm mà
thiệt thân.
TrờI ơi ! Tôi đau nhói như ai cắt ruột
tôi ! Anh ơi, em chết đây !
Dưới thư không có lời chào nào, cũng
không ký tên, dường như Oanh không còn can đảm viết thêm chữ nào nữa
hết.
Tôi chết sững nửa tiếng đồng hồ, rồI đánh điện ngay cho ông Hiệu
trưởng
trường Sóc Trăng , vì đã bỏ bê công việc lại xin phép mãi, e
bị quở nếu
xin nghỉ nữa.
Điện tín , tôi viết như vầy :
Trân
trọng yêu cầu cho biết sức khỏe của Oanh .
Ông ấy đáp :
Oanh thôi
việc. Đi không để lại địa chỉ.
Hừ, thế nầy là làm sao ? Thoạt tiên,
tôi đoán là Oanh đã lỡ dại với ai,
có nghén nên sợ xấu và sợ tội (
trong giáo giới ngườI ta nghiêm khắc về
hạnh kiểm của giáo viên lắm )
nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho
tôi thế.
Nhưng xem kỹ
lại lờI thư thì không phải vậy.
Hay là ? Tôi nhớ có đọc một tiểu
thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn
để chết.
Nhưng cũng không phảI . Oanh có học, dư biết bịnh lao không
hoàn toàn tuyệt vọng (2) , thì dại gì nàng phảI làm như vậy.
Mà nàng
tự tử hay trốn đi đâu ? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt
lì, tôi xin nghỉ phép nữa.
Oanh ngườI Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó .
Tôi vừa vào tớI sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.
- Con ơi, vợ con nó
đã chết rồi à ! Ơ…..Ơ.. trời ơi là trời , con tôi chết.
Chúng tôi
không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế
mà nay
bà cụ lạI ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội
lỗI
gì đối với tôi cả.
Tôi chỉ ngậm câm , khóc không được mà nói cũng
chẳng ra lời.
Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà
cụ khóc kể một
hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt
Nam bao giờ cũng
vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho
chồng con, cho khách
khứa
Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im
lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu
Ông
cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang
sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.
Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn,
ông cụ mới mở miệng :
- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng,
thật xa. Nó căn dặn tôi
với mẹ nó hễ …. con đến – ông cụ ngập ngừng
trước tiếng “con “, ngại
thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng
ấy- hễ con đến thì nên giấu
biệt chỗ trú ẩn của nó . Ngỡ như vậy là
xong , nào dè mấy hôm sau thì
nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.
Bấy
giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi
bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.
Khóc cạn lệ tôi mới
hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy .
- Con yêu
nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã
mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn…..
- TrờI ! Tôi kêu thầm
-
Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó , ba đời liền , không thấy ai

bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế
hệ
lìên rồi mới xuất hiện trở lại.
Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn
lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay
nó bị truyền nhiễm do người ngoài
không biết chừng , vì không nghe nói
ông bà hồi trước có ai bị phong
đơn.
Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn
cứ nổi
lên : da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo
nên con
không thấy.
Về sau , nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên
sinh . Cái ngày mà nó
viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ
sau một bữa ăn cua đinh.
Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng
thuốc xanh trộn vời dầu chùm
bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm
thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống,
nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè
như đã nhúng chàm ,đánh phấn thế
nào cũng chẳng lấp được cả.
Sở
giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên
nghĩ
dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổI trở lên,
lần
này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.
Thế
là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con , rồI lùi về đây.
Mấy ngày ở
trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó ,
nên trong một lúc tuyệt vọng kia , nó hủy mình
Trời ơi, bấy giờ tôi
mớI hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được
tạI sao nàng bảo là nàng ích kỷ .
Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí
hình ảnh tươi đẹp của nàng , y như
ngườI quí phi bên Tàu ngày xưa
cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc
nàng đã tiều tụy sau một trận
ốm nặng.
Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu . Nàng chỉ thương tôi thôi,
muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.
Lâu kính nể sự
yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao
giống như các
điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị
ngày xưa.
-
Anh thấy không . Niệm tiếp, làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở
ấy.
Nó có tàn rụng sau một thờI ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút
nầy,
tôi nghe vẫn còn yêu Oanh , còn nghe như Oanh còn sống đâu đó .
Tuổi
tôi cứ chồng chất lên , nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là
học
sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.
Chúng tôi day lưng dòm vào
phòng ngủ thì, qua lướI mùng “tuyn”, các cậu học sanh già đang yên giấc,
ngáy pho pho.
Ánh đèn chong xanh xanh gợI lên hình ảnh huyền hoặc
của một thế giớI ma
quái mà trong đó hồn ngườI xưa như đang rung rinh
bay qua bay lại, hồn
những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất
tình, bịnh tật, chiến
tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.
Dưới
sân đen ngòm , nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.
Những bóng ma của
dĩ vãng !.

Điển Tín , 1950.
Chú Thích.
(1) : Tôi không nói
được tiếng Anh.
(2) : Thuở ấy, tuy chưa có thuốc trụ sinh, nhưng bịnh
lao nhiều trường hợp cũng trị khỏi được.


Bóng ma trường áo tím

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Similar topics

-
» Ti sói sn 96 ( trường Nguyễn trường tộ )
» Trường Học Toàn Là Ma
» Bé Lucas bị cô lập tại trường học
» Về thăm trường cũ
» FC ....... Phạm Trưởng dzô coi ik

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
FullHouse.yforum.biz :: Thư viện_[F]ull [H]ouse :: Thư viện truyện_[F]ull [H]ouse :: truyện ma_[F]ull [H]ouse-
Chat ( )
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất
Sử dụng mã nguồn vBulletin® Phiên bản 3.8.7
vBCredits I v. 1.5.1 Gold ©2001-2010, PixelFX Studios Ltd.
© 2011 - 2012 Nhóm phát triển website: Cộng đồng giới trẻ Nghệ An.
Phpbb2 - Forumotion!Rip Skin by cubimtq