FullHouse.yforum.biz
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

FullHouse.yforum.biz


 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share

Hạt Đồng Giao - TCHYA

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
#
Nấm_Njo
Nấm_Njo
SMod
SMod
Nam Bài gửi : 1224
Tài Sản : 1000
Thanks : 65
Hạt Đồng Giao - TCHYA



Khi chuyến tàu Hà Nội - Vinh ghé một phút tại ga Đồng
Giao để trút
xuống mỗi một người hành khách và một kiện hàng, thì kim
đồng hồ nhà ga
chỉ đúng 7 giờ 55 phút. Trời hôm ấy là một vòm trời
đen tối; mưa phùn
rả rích phủ kín không gian bằng một tấm màn ảm đạm;
khí hậu nặng nề ẩm
thấp; quang cảnh bốn bề lạnh lùng bí mật, chung
quanh nhà ga đều là đồi
núi từng cây, khiến càng tăng thêm vẻ hoang
vu rùng rợn.

Chỗ đó, xưa kia là một khu rừng sâu thẳm, ở vào một
nơi đồi núi hiểm
hóc, chỉ có thể làm sào huyệt cho lũ giặc cỏ ẩn
nấp, hoặc làm trường
mai phục cho hai đạo quân Chúa Nguyễn và Chúa
Trịnh khi Bắc Nam xung
đột binh đao. Chỗ đó ở chính giữa khoảng giáp
giớn hai xứ Bắc và Trung
kỳ, nó chia rẽ bờ cõi hai kỳ bằng ba từng
núi liền nhau, vì cớ ấy tục
thường gọi là đèo Tam Điệp.

Ai đã
từng đi xe lửa từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, chắc cũng đã để ý đến
một
quãng đường sắt gập ghềnh, hiểm trở, có lắm đoạn khúc khuỷu, mỗi
lợt
xe đi qua lại ngửa nghiêng lúc lắc phải ghìm bớt đà lại, làm cho
hành
khách khó chịu mỗi khi nghe tiếng nghiến kèn kẹt của bánh xe ép
chặt
trong máy hãm , giữa khi thân thể thì bị rung chuyển vì con tàu
quằn
quại, lợn ngùng ngoằn như con rắn uốn éo trên một con đường hẹp
hòi,
đục ở giũa núi. Ló đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn phong cảnh, ta chỉ
thấy
mặt đá trơ trơ, dựng cao như bức tường, và toàn thị là một thứ sậy
khẳng
khiu, mọc ở ven sườn đá. Một khi tàu chui qua khỏi núi ra tới nơi
đất
phẳng thì lại chỉ là một khoảng đất mênh mông bát ngát lởm chởm
những
đá, trên mọc xanh um kín mít những thứ cây nhỏ không tên tuổi,
lan
rộng khắp vùng; trông bụi không ra bụi, đồng không ra đồng, chỉ
thuần
một màu xanh thẫm, không thấy mặt đất đâu nữa. Thứ cây đó chả
hiểu
là những loại gì, nó thấp lè tè, quá mặt đất độ hơn nửa thước, mọc
chen
lẫn với lau và sậy, với cỏ, với rêu, biến quãng bình địa ra một
khu
hoang vu xanh thẫm, rừng cây không ra rừng cây, nội cỏ chẳng ra nội
cỏ.
Trong muôn vàn thứ cây đó, thứ mọc nhiều nhất là cây săng, cây sim
;
có thứ lại có hoa trắng và hoa tím, điểm một nét diễm lệ trên vẻ trơ
tẻ
cằn cỗi của ngàn lau.

Từ mấy năm nay, có một ông hào phú được
nhà nước cho phép khai khẩn
chốn hoang vu đó để làm đồn điền. Nhưng
dáng chừng sự khai hoang khó
khăn quá, nên nhà hào phú kia đành bó
tay chịu thua Tạo hóa, chỉ để lại
trên đường sắt một tấm biển báo
hiệu cho công chúng biết đất Đồng Giao
là nơi sắp thành ấp nay mai.
Ai đi qua Đồng Giao mà chẳng thấy tấm biển
gỗ to, đứng sừng sững trên
ngàn cỏ xanh đã mấy năm nay, trên có một
hàng chữ đập mạnh vào đồng
tử người quá khách: "Concession Nguyễn Văn
X... "

Sự mở mang
khu đất rộng giáp với đường sắt ở vùng Đồng Giao hẳn phải là
một công
trình vĩ đại, mà trong một thời gian ngắn ngủi, sức người khó
nỗi
làm xong. Muốn cho bãi đất hoang thành khoảng đồng phì nhiêu phong
phú,
tất phải bỏ ra mặt số tiền ức vạn, một là để phạt hết cây hoang cỏ
xấu,
hai là để san bằng mặt đất, vạt cho hết lượt sỏi đá gồ ghề. Công
trình
ấy cũng đủ nuốt hết một gia sản khổng lồ, huống lại còn phải xây
nhà
cửa, nuôi súc vật và trồng trọt! Có lẽ cũng vì thế nên nhà hào phú
kia
đành nhẩn nha làm việc, không thể tiến hành công cuộc khai khẩn một
cách
mau chóng hơn nữa.

Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Đồng Giao, ai
đã ở vùng ấy độ dăm bảy
tháng ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói
về thủy thổ miền giáp giới
Bắc Trung kỳ. Đó là tổ sốt rét rừng, dẫu
uống ký-ninh đến điếc tai cũng
khó lòng tránh khỏi. Khí hậu thực là
kỳ quặc: tuy ở vào miền gần bể, mà
Đồng Giao về phương diện thời tiết
cũng chả khác gì những chỗ ở mạn
thượng du, và có lẽ còn độc hơn các
tỉnh ly vùng thượng du nữa. Đêm thì
lạnh buốt phải đắp chăn tới
sáng, ngày lại nóng bức như giữa mùa hè.
Sống trong bầu hàn thử tương
xung đó, phải có xương đồng da sắt mới
tránh khỏi sự Ốm đau quặt
quẹo. Buổi sáng, tám giờ, sương trắng như
sữa, đặc như khói, còn phủ
kín non sông cây cỏ; mãi đến khi mặt trời
lên cao lắm mới tan dần.
Chiều tới, vào khoảng bốn năm giờ, sương đã
bắt đầu rỏ xuống rồi tụ
lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm đắm
trong một bức màn trắng
đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó
lòng trông thấy mặt
nhau. Trong vụ quí xuân, mỗi khi có mưa râm rả
rích, sự nặng nề ướt
át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều
xám đục, đất thì
vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm
đạm. Có lẽ vì vùng
Đồng Giao ở cao hơn mặt bể, lại có các rừng núi bao
bọc, nên tuy
không xa đồng bằng mấy, mà khí hậu thời tiết khác hẳn các
miền ở đồng
bằng. Quanh năm không khí bao giờ cũng đầy hơi nước; sự ẩm
thấp
không làm sao tả xiết; cỏ hoang rêu lạ tha hồ được tươi tốt những
áo
quần đồ đạc thì luôn luôn phải hơ, phải sấy, nếu không ắt bị mốc bị
mục
một cách mau chóng lạ thường.

Đem so sánh các tỉnh rải rác trên
quãng đường thiên lý chạy từ Hà Nội
đến Huế, thì có lẽ hạt Đồng Giao
là chỗ độc địa hơn cả. Sở dĩ nước độc,
tại vì bốn chung quanh hạt
toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy bãi
lau; nhưng lá cây mục nát
từ thủa xưa còn chồng chất cả trên mặt đất,
trong lòng suối, khiến
nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như
nước ao tù.

Những
cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho tan đi, lại nhuốm
các
khí độc ở đất bốc lên, thu tất cả bao nhiêu những nguồn ám chướng
vào
lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào được,

cây cổ thụ rờm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng
niên
vạn đại cũng cha tiêu. Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối,
lâu
ngày mục dần, biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào
nước,
hoặc ngấm vào mạch nước, đầu độc cả các suối, các ngòi. Dân cư
bởi
thế, không tài nào tránh khỏi bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy
nước
làm một sự cần thiết cho cuộc sinh hoạt thường ngày.

Đấy, chỉ
xem qua như thế ta cũng đủ thấy đất Đồng Giao là một vùng ám
chướng;
mà không những hạt ấy chỉ độc địa ở khí hậu, chỉ buồn tẻ cằn
cỏi ở
phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ờ chỗ rùng núi bụi bờ chứa
đầy
các loài mãnh thú sinh hoạt một cách hùng cường phồn thịnh trong vẻ
phồn
thịnh cua cỏ cây.

Bởi địa thế hiểm hóc, Đồng Giao đã làm trường
thí nghiệm cho muôn ngàn
tấn bi kịch khủmg khiếp. Nào là cướp bóc,
chém giết, nào là hãm hiếp,
giam kìm vân vân... Những trò thương tâm
ấy đều là của loài người tranh
cạnh với loài người, mà diễn ra, nó
không có tính cách lạ lùng cho lắm.
Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh
thú, vì đói ăn bắt loài người cấu xé
ra từng mảnh, xác thì dùng để
lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ
ma trành. Một câu chuyện
trong muôn ngàn chuyện hổ hại người, tình cờ
khi đặt chân lần đầu
trên đất hạt Đồng Giao này tôi đã được nghe thuật
lai.

Bạn
hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi chúng ta sẽ cùng đi tới
đầu
đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực, dẫu vừa mới tám
giờ
đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn sự lạnh
thấu
trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh
trên
con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời,
mưa
phăn tạt vào mặt tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách
va
ly thất thểu trên vỉa đường ẩm thấp, đi vào cửa ga.

Cửa ga hé
mở có một cánh. Một người thư ký, gầy gò trong chiếc áo the
lụng
thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi trao. Tôi cũng chả buồn nhìn xem
ông
ta già hay trẻ và mặt mui thế nào. Vả lại tối lắm.

Bước vào mé
trong ga. tôi thấy ấm áp dễ chịu. Anh sáng các ngọn đèn dầu
tây tỏa
ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng bẩn thỉu, trên
tường
có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một cái cân
to.


Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại , ở bóng tối bỗng đâu nhô ra
một
người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả
người.
Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng
nhỡn.

- Tôi đợi anh đã lâu. Sao tàu chậm thế?

Tôi mới
nhận ra đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, một nhà thầu khoán to
hiện
đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn Đồng Giao.
Anh
Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tói xềnh xệch ra
khỏi
ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá
vụn.
Tôi ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùng vô định, lờ mờ u ám,
không
còn nhận rõ sự gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành
xe,
kêu rắc rắc, và luôn luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều
đều.
Một nửa giờ như thế, xe ngừng lai. Bạn tôi bấm đèn "pile" rọi
sáng,
đưa tôi vào một tòa nhà.

Trời tối lắm, tôi cũng chả biết nhà ấy
lợp bằng ngói hay bằng gồi, tiến
vào thì thấy nền nhà cao ráo, phòng
ốc rộng rãi, tườg tuy bằng rơm và
phên trát vữa, nhưng có cửa kính
cứa chớp chắc chắn, mé trên thì cũng
có trần như các nhà tây. Trong
nhà có ghế xa lông rơm và dăm bộ phản,
cùng một bộ bàn ăn. Bài biện
rất sơ sài, song thực là ngăn nắp và sạch
sẽ, thoạt mới vào ai cũng
phải vò đoán chủ nhân là một kẻ làm ăn cẩn
thận, ưa sự thực tế mà
ghét thú xa hoa. Trên tường, quét vôi trắng
toát, chả có tranh ảnh gì
cả. Gian giữa, thì thấy treo một khẩu súng
trường hai nòng và ba thứ
khi giới ta; một thanh mã tấu, hai thanh quất
và một cái nỏ. Thế là
hết. Các đồ trang hoàng chỉ có thế, còn thì trơ
trụi mạt tường không.


Nhưng ta cũng chớ nên vì thấy vẻ sơ sài đó mà vội liệt chủ nhân
vào
hạng người chỉ có óc buôn bán, không có óc mỹ thuật. Thực ra,
Thủy là
một thiếu niên rất chuộng văn chương, âm nhạc; sở dĩ chàng
chịu sống
trong cảnh trơ tẻ như thế chì bời chàng muốn theo đúng chí
hướng của
cha, muốn tự buộc mình luôn luôn phải nghĩ đến sự làm ăn để
làm thí dụ
cho đứa con thơ và cho vợ. Cái nhà ở Đồng Giao này, chả
qua chỉ là chỗ
sống tạm bợ mà thôi, hà tất phải vẽ vời trang hoàng,
bày biện mỹ lệ làm
gì cho tốn. Có quen Thủy lâu ngày, có đi sâu vào
tâm lý chàng, mới có
thể hiểu chàng là một nhân vật dễ xúc cảm, dễ mơ
mộng, dẫu bề ngoài
chàng cố hết sức nén đè các tính tình nhu nhược
của mình đi.

Thoạt vừa tới nơi, tôi đã thấy trên bàn bày sẵn bát
đũa và các món ăn
nghi ngút. Có một sự làm tôi chú ý nhất, ngạc
nhiên nhất, nhưng cũng
vui thú nhất: ấy là một bộ khay đèn sáng
loáng, rất tươm tất bày trên
một cái sạp gụ Ở góc phòng.

Trước
khi xuống chi với Thủy, tôi đã sắp sẵn trong va-li đủ các khí cụ
cho
sự nghiện hút của tôi rồi. Tôi vẫn biết bạn không ưa thuốc phiện mà
chỉ
trọng thể thao săn bắn nên chắc rằng anh chả để ý gì đến sự tìm
kiếm
khay đèn cho tôi. Ngờ đâu anh chu đáo quá! làm cho tôi vừa cảm
kích
vừa hổ thẹn nghĩ đến tình bạn đối với mình lại quí mến bạn biết
bao!

Ăn
cơm có Lệ Thi, vợ Thủy, cháu Thu Nhi, con gái Thủy, bạn tôi và tôi
chuyện
trò vui vẻ, ăn ngon quá, đồ ăn hết nhẵn, vì Thủy ăn khỏe như
hùm.
Giữa chốn đồng rừng u tịch này, vợ và con gái Thủy tựa như lai đóa
hoa
thành thị, lạc loài vào bãi tho mộc xanh um của đồi núi, ngõ hầu
đem
đến cho kẻ bị đày vào nơi hoang vắng một chút hương thơm của chốn
náo
nhiệt phồn hoa. Vợ con Thủy tức là cái mục gia của chàng, cái mục
gia
mà mỗi lần quá mệt nhọc ưu tư, chàng quay về ngắm nghía thì kluây
hẳn
nỗi lo sầu lao khổ. Có ở một chỗ xa xôi lạ người lạ đất, ở một chỗ

"lau già trút vỏ nẩy mầm quanh hiên", thì mới biết bàn tay mềm mại
của
người đàn bà và tiếng nói líu lo của đứa trẻ con, thực quả rất cần
thiết
cho sự sinh hoạt thường ngày. Mất hai thứ quí báu ấy cuộc đời dễ
tẻ
dễ chán lắm, và, mỗi lần phải xông pha những cuộc khó khăn để đạt
tới
công danh hay phú quí, thì không làm gì có sự khuyến khích thiết
tha
tâm trí để bền lòng gắng sức tiến lên.

Trong đời kẻ anh hùng,
đem toàn thân thờ một quan niệm siêu quần, có lẽ
vợ con là một điều
trở ngại cho chí khí. Nhưng trong đời một kẻ sống
một cách tầm thường
bình dị thì sự thiếu vợ con quả là một nỗi buồn
rầu, một động lực
làm trở ngại sự tấn tới trên đường sinh hoạt.

Bới thế, đối với
Thủy, tôi thấy ngay rằng anh đem vợ con cùng ra ở Đồng
Giao là một
điều chí lý, dẫu rằng khí hậu thủy thổ ở đất này không được
lành như ở
đồng bằng. Song le, vì anh khéo giữ gìn, ăn ở đúng phép vệ
sinh, nên
cả nhà anh ít bị ốm đau quặt quẹo; vợ con anh trông đều khỏe
mạnh
cả, không đến nỗi mặt bủng da chì như phần nhiều dân ở nước độc
rừng
thiêng.

Cơm nước xong, cả hai vợ chồng bạn và đứa con thơ theo
gót tôi cùng lại
sập gụ Ở góc phòng, bốn chúng tôi quây quần chung
quanh bàn đèn, nói
chuyện với nhau như họp chợ. Lệ Thi tự tay rót
nước lọc ra ấm, đặt lên
đèn cồn, đun một ấm nước sôi. Rồi lại tự tay
nàng lấy cốc lấy đường,
pha cho hai anh em tôi mỗi người một cốc cà
phê rõ đặc.

- Hút thuốc phiện có hãm cà phê đắng mới thú vị, em
nghe cậu em ngày
trước vẫn nói như vậy. Ở đây tuy có cà phê nhưng tự
rang lấy không được
ngon lắm, bởi thế thứ cà phê này, em phải gửi mua
từ Hà Nội xuống đây.
Nhà em uống quen rồi, cứ gần hết em lại vội
nhắn mua cho kỳ được, nếu
không cn nghiện ông ấy lên, ông ấy ray rứt
cho đến khổ! Ấyy nghiện cà
phê còn như thế, nghiện thuốc thì đến thế
nào?... Nhưng mà... anh thử
uống xem có phải đúng Moka hảo hạng đó
không?

Hôm đó thực là ngày hội. Nào là Lệ Thi, nào cháu Thu Nhi,
nào Thủy, nào
tôi, cứ cướp lời nhau mà nói, nói đến chỗ vui quá lại
cười ầm lên. Tôi
hút bữa thuốc phiện đêm ấy sao mà không thấy đủ, dẫu
rằng thứ tôi hút
là một thứ "thuốc Mẹo" cũ kỹ đã có váng mốc, mà bạn
tôi đem tự Lào về
rồi giấu đi để dành cho tôi đã hơn một năm nay.
Thì ra vừa hút vừa nói,
thuốc phiện đi đâu mất hết. Tôi cứ nằm dài
hút mãi, tiêm xong lại hút,
hút lại tiêm, không có ai là bạn "đối
hấp" cả.

Lệ Thi nói chuyện chán quay vào quấy nhiễu bàn đèn, đòi
tiêm cho tôi
hút. Thủy vội vàng gạt đi, nhưng tôi lại chiều ý, đến
nỗi thuốc phiện
rơi vãi ra khay tứ tung nhoe nhoét, dính hàng tảng
vào nhĩ tẩu, và rỏ
xuống tắt cả đèn. Có đến thế nàng mới chiu thôi,
dắc con đi ngủ. Chỉ
còn hai anh em chúng tôi nằm đối diện nhau cạnh
bàn thờ Phù dung nữ
chúa mà thói. Thủy đứng dậy bỏ màn xuống cho đỡ
muỗi.

Đêm lúc ấy đã khuya. Chim rừng queng quéc báo hiệu đầu giờ
Tý. Bạn và
tôi buổi này không đàm đạo nữa, cùng nằm yên hưởng thú
tinh mịch của
canh trường. Chúng tôi hiểu rằng nói chuyện với nhau vô
ích; đã là đôi
bạn tri giao thân thiết, thì nhiều khi kề bên nhau
cũng đủ rồi. Chúng
tôi được gần kề nhau được thấy mặt nhau, còn gì
sung sướng khoan khoái
hơn nữa? Tội gì đem lời nói phá tan sự khoan
khoái ấy đi. Trong cái êm
đềm quạnh quẽ, tình thân yêu qui mến còn
nồng nàn hơn lúc nói cười. Có
biết nằm yên để lẳng lặng nhìn nhau, đó
mới thực là tương ái đến tột
điểm. Mà có khi lại không cần nhìn nhau
nữa; mỗi người nhắm mắt mơ màng
một lối , miễn là đều có tín ngưỡng
rằng cả hai cùng được gần nhau. Thế
là đủ, trong tất cả cuộc đời thân
thiện của Thủy và tôi, chúng tôi
tương tri nhau ở chỗ ấy hơn cả.

Tôi
bấy giờ mới thấy thuốc Mẹo thấm vào gân cốt, trong người nhẹ nhàng
êm
ái, say sa một cách rất dịu dàng, chỉ muốn lơ mơ nằm điềm tĩnh bên
khay
đèn mãi mãi, đừng bao giờ phải dậy nữa.

Thực là một thú vị ngây
ngất, êm đềm và huyền ảo , không tài nào tả rõ
được. Trong lúc bàng
hoàng, yên chí rằng có bạn ở bên cạnh, và cũng
đương trầm ngâm mơ
mộng như mình, tôi cứ yên lặng nghĩ quanh nghĩ quẩn
hết xa đến gần,
thức cũng không phải thức, mà ngủ thì không ngủ được,
linh hồn nửa
tỉnh nửa mê, phiêu diêu phảng phất, đi sâu vào cỏi Yên Hà.
Bất giác
tôi nghĩ đến đôi câu đối khắc trên yên dọc tẩu của tôi, tôi
bèn ngâm
váng lên một cách rất tự nhiên, nhưng thực quả là vô lý.

Cao
ngọa gia san, hô hấp vân yên hàm bán tháp;

Ấn cư cầu chí, trù
mâu phong vũ đối cô đăng...

Bạn tôi có lẽ đương lim dim ngủ,
giật mình tỉnh dậy. Nhìn đồng hồ, bấy
giờ vào khoảng hơn một giờ đêm,
đầu giờ sửu. Thủy với tay lấy cốc cà
phê, ghé lên mồm uống một hớp
nhỏ. Tiếng cùi dĩa sắt đụng vào thành cốc
leng keng.

Liền lúc
ấy, xa lắm, xa lắm, tôi thoáng nghe tiếng đờn ca não nuột. Tôi
lắng
tai chú ý. Im lặng. Chỉ có tiếng mưa tuôn rả rích, tiếng gió phả

vèo, tiếng trùng than dế khóc, và chốc chốc, tiếng một con chim rừng
kêu
quạc quạc trên ngàn. Tôi lại ngả đầu xuống gối.

Bỗng đâu, một
nhịp đàn hát lại văng vẳng lọt vào tai tôi, nhỏ lắm, xa
lắm, tưởng
chừng ở cõi vô hình đưa lại. Dưới mãnh lực của Phù dung, xúc
động hết
giác quan của tôi khi say khói, tai tôi nghe thính một cách lạ
thường.
Tôi áp tai xuống phản.

Thì này, không còn sai nữa, rõ ràng có
tiếng hát ở đâu đây? Tôi hết sức
lắng nghe. Từng quãng một, như xa
như gần, như khoan như nhặt, âm thanh
kia réo rắt từng hồi. Càng ngày
nghe càng quen, càng rõ. Một chốc,
tiếng đờn ca ngừng bặt, rồi lại
tỏa ra; nhưng ước chừng gợn dư âm kia ở
mãi ngọn đồi, chân ải, ở một
vùng xa nhà bạn tôi đến dăm bảy trăm
thước, không biết xuất phát từ
hướng nào. Cũng có lúc, nhờ sức gió bạt
sang, nghe rõ nửa câu, vài
điệu; lại có khi gió quay đi chiều khác, chỉ
nghe lờ mờ văng vẳng mà
thôi.

Tôi chú ý đến nửa giờ, mới đoán được giọng hát kia là
giọng cô đào hát
nói. Bởi lẫn trong đàn hát, một đôi khi nghe thoáng
có nhịp phách chấm
câu. Thôi, đích thị rồi! Có lẽ quanh vùng đây, có
nhà hào mục, tổng lý
nào được sắc ăn khao, vui mừng nên đặt ra trò
tiêu khiển thanh cao nhã
đạm ấy. Nếu không phải thế thì trong hạt này
làm gì có cái của hiếm,
giống những nơi xa hoa phồn thịnh, tức là
cái thú cô đầu?

Nghĩ thế, tôi ngồi nhỏm lên, với tay gọi bạn:

-
Này Thủy, ở đây có nhà nào đặt tiệc ăn mừng không? Bạn tôi mắt nhắm
mắt
mở, choàng thức dậy, với lấy cốc cà phê hớp nốt mấy ngụm cặn cuối
cùng.
Xong ml hỏi tôi:

- Cái gì thế? Anh không hút nữa à!

-
Tôi thôi hút đã lâu; tôi muốn hỏi ở đây có nhà tổng lý nào được sắc ăn
khao mà hát xướng om sòm lên thế?

- Làm gì có ăn khao, làm gì có
hát xướng! Chả qua vì say thuốc phiện anh ù tai đấy mà thôi.

-
Nói lạ! Rõ ràng, tôi lắng đến nửa giờ, có tiếng hát đào văng vẳng, nên
mới tư ởng rằng quanh vùng này có tiệc ăn khao...

- Anh nghe
thấy tiếng hát ư? Thế thì anh có phúc thật! Tôi ở đây đã
mười mấy
tháng trời , mà cả hai vợ chồng, chả đứa nào nghe thấy gì cả!

-
Anh nói cái gì tôi không hiểu? Nghe cái gì?

- Nghe hát.

-
Hát gì? Hát cô đào...

- Cô đào ở đâu?

- Ở trong rừng?

-
Sao lại ở trong rừng?

- Ở trong rừng nghĩa là ở trong rừng, chứ
sao!

- Thằng cha này nói vô lý! Cô đào nào lại có thứ cô đào ở
trong rừng?

- Thế mà ở trong rừng mới lạ chớ!

- Thôi,
hẳn có sự bí hiểm gì ở chỗ này rồi, chớ không sai! Anh Thủy ôi! Anh làm
ơn kể cho đệ nghe với nào!

- Dễ chửa, anh có gì biếu, tôi mới kể
cho mà biết; chứ dễ thường mỗi
lần anh muốn thỏa chí tò mò hiếu sự,
thì anh cứ việc đang đêm hôm dựng
cổ tôi dậy, là tôi phải kể hầu anh
nghe đấy ư?

- Tôi lạy anh. Hễ anh kể tôi nghe, mà tôi viết được
thành sách, thì
quyển sách ấy sẽ riêng tặng anh, Lệ Thi và cháu Thu
Nhi! Thế là món quà
quí nhất của tôi đó!

- Ừ , thì được, nhng
mà hãy thong thả một chút. Để tôi đánh thức Lệ Thi
dậy, bảo đun nước
pha một cốc cà phê đặc uống cho tỉnh táo đã, nhiên
hậu mới kể được
cặn kẽ cho anh nghe.

- Thôi để tôi pha hầu, hà tất phải làm tội
Lệ Thi như thế.

- Không được! Chỉ có vợ tôi pha tôi uống mới
ngon thôi, vì nó biết tính
tôi rồi. Bao nhiêu nước, bao nhiêu đường,
lại chỉ được lọc nửa cốc
thôi, còn thì pha thêm nước sôi, nếu không,
uống sẽ đắng mà không thơm.
Lệ Thi! Còn thức đấy không? Dậy anh mượn
tí!

Lệ Thi trong màn bước ra, vừa đi vừa vấn tóc. Dưới ánh đèn
lờ mờ, trông
nàng ban đêm đẹp quá. Nàng lịch kịch đun nước, pha hai
cốc cà phê. Và
nàng lại rót mía đường chèo chất đầy một dĩa cho chồng
hãm giọng và bạn
hãm thuốc.

Đương khi chờ đợi, Thủy uống hớp
cà phê đầu thì cho lòng hiếu kỳ của
tôi được mãn nguyện, và muốn cho
câu chuyện đợm thêm vẻ nỗng nàn đằm
thắm, tôi lại khêu to đèn tiêm
thuốc hút nữa, khiến cho thời gian chung
quanh mình cũng bớt phần ảm
đạm, nặng nề.

Tiếng nước réo mãi không sôi làm tôi sốt ruột. Lệ
Thi quay vào buồng
đắp kín chăn cho con bé cháu, xong quay ra giắt
màn cho chúng tôi cẩn
thận rồi yểu điệu ngoan ngoãn ngồi thu hình sau
lưng chồng, góp thêm
trong quãng u tịch của đêm trường một cái bóng
dịu dàng bên hai chiếc
bóng cứng cỏi của tôi và Thủy.

Ngoài
thềm, tiếng trùng than dế khóc ầm ĩ tỉ tê như một khúc nhạc rầu
rĩ êm
đềm. Vài chiếc lá khô, thỉnh thoảng bị gió bạt lìa khỏi cành, xào
xạc
rơi xuống mặt sân gạch. Gió từng luồng nhẹ, chốc chốc rúc vào khe
cửa,
rên lên một tiếng não nùng như tiếng thở dài. Mưa, nghe chừng đã
tạnh,
nên không có tiếng tí tách rả rích trên vỉa hè nữa. Vạc, hàng
dãy,
xé không trung bằng những tiếng ri rắc, ngắn ngủi không hề có gợn

âm.

Lệ Thi vươn tay qua mình chồng, lấy cái lọc cà phê bỏ ra
ngoài. Thủy
hớp được vài hớp nước nóng, bấy giờ mới đằng hắng vài cái
bắt đầu nói
chuyện.

Bóng Lệ Thi vẽ lên màn một cái hình
thiếu phụ mơ màng.



Hạt Đồng Giao - TCHYA

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Similar topics

-
» Ma Không Đầu - TCHYA
» Ai Hát Giữa Rừng Khuya - Tchya
» đây là vài pic của em nó...xjn mọi ng chỉ giáo thêm nhé pà k0n
» Ma đất đêm giao thừa
» Cháu đi mẫu giáo

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
FullHouse.yforum.biz :: Thư viện_[F]ull [H]ouse :: Thư viện truyện_[F]ull [H]ouse :: truyện ma_[F]ull [H]ouse-
Chat ( )
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất
Sử dụng mã nguồn vBulletin® Phiên bản 3.8.7
vBCredits I v. 1.5.1 Gold ©2001-2010, PixelFX Studios Ltd.
© 2011 - 2012 Nhóm phát triển website: Cộng đồng giới trẻ Nghệ An.
Phpbb2 - Forumotion!Rip Skin by cubimtq