FullHouse.yforum.biz
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

FullHouse.yforum.biz


 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share

Ma Không Đầu - TCHYA

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
#
Nấm_Njo
Nấm_Njo
SMod
SMod
Nam Bài gửi : 1224
Tài Sản : 1000
Thanks : 65
Ma Không Đầu - TCHYA

Ma Không Đầu
Tác Giả: TCHYA


Tôi dụi mắt ngắm kỹ
một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng
vừa hiện ra lúc tôi
mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa
hồ như chứa đầy
một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà
hình như rõ rệt
tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.

Hiện trạng đương
phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt tôi không xa mấy,
dưới ánh nắng
vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả thực là
một hiện
trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt
quáng của
tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không
biết tự đáp
thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong
lại nhìn,
tôi hết sức nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của
tôi
thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa.
Nhưng...
có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.

Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột
đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban
ngày, sự lạ lùng hiện ra
cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà
cũng không thay đổi. Sự
ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự
tối vô lý mà mình phải
tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối,
mơ hồ. Cứ lấy con mắt
hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn
tránh tính tò mò hiếu
sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật
gì để đi gần lại
trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn
khói bị gió lùa.
Hoặc ta tìm cách đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba
cột đèn sẽ tới
nơi, trông lên không thấy gì nữa cả; hoặc ta đem lên mắt
một cặp ống
nhòm để phóng đại trưởng quan sát, phong cảnh càng to ra
bao nhiêu
thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành
trong vắt
như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.

Bằng cứ chịu khó đứng
xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc
kia cũng vẫn hiện
ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt,
nửa mơ hồ lạ
lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất
cứ lúc nào,
ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm
trở về
cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu
gợi
cho nó nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.

Sự biến thiên
đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho
những khách
tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải dằn lòng gắng
sức đợi đến
ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn thấy;
nào phải
đâu là sự dễ dàng.

Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là
hai con ma, hai cái oan
hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày
không tiêu đi được tụ lại
thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng
của trời đất, nên mỗi khi bị
hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên
ngay, hiện lên để diễn lại một
tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó
thường diễn những giờ cao hứng.

Phàm giả người ta, trong buổi
sinh thời, có một thú gì mình yêu nhất,
mê nhất, một thú gì làm then
chốt cho tất cả bao nhiêu tính hình dục
vọng của mình, một thú gì
mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả
những khoái lạc của cuộc đời
, thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục
rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến
thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp
hưởng lại là chộp lấy
ngay, không bỏ sót.

Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết,
hồn thi nhân còn muốn ngâm
thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc
công còn muốn gảy đàn. Câu thơ
của Đường Vương Bột văng vẳng trên
dòng sông Lạc, liệu đàn cua Sư Quyên
véo von trên mặt sông Bộc chẳng
phải là những chứng cớ rõ ràng cho
thuyết ấy hay sao?

Mà nhất
là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà
chết
oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh
hồn
bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ
được,
cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ.
Điểm
linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn
còn
đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên
khó
lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn
muốn
sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn
vẫy
vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời cùng tranh đấu cho tới cùng.

linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay lên một gầm thiêng
liêng
cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó không mấy khi
trở
lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi nghiệt
duyên
dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng
thường
thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham
muốn
thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta,
dẫu
rằng trong một phút.

Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần
mò cùng đến, để rồi chóp lộc
cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay
có kẻ thần hồn bị suy nhược là
chúng ám vào người để được cử động
quay cuồng cho đắc ý. Lại những lúc
có cuộc thi hội, thi hương, thì
chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi
gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo
oán.

Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn
còn muốn sống
nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt
ta không đợc quan
sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta
chịu khó bỏ hết cả
các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi
chút đến nhẽ huyền vi
của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không
có sự gì hoang đường cả.
Trên đời chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi,
cái gì có thể xảy ra được
đều là thực cả.

Chỉ có một điều, là
không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được
cả. Ma muốn hiện
hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp
không bị ngăn
trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra nước
tất phi nấu
lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải
bất cứ
trường hợp nào cũng xảy ra đâu?

Cho nên, ma có thể hiện hình
được, trước hết cốt phi thiêng, mà muốn
thiêng, thì theo như sự chúng
ta cùng biết, phải có một vài điều kiện.
Một là chết đúng giờ. Hai
là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ
dội. Ba là chết oan. Bốn là
được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải
hấp thu được khí thiêng của
trời đất.

Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt,
phất phưởng, khi
tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà
thôi. Mà có được cả
mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi,
từng chỗ, từng thời, mới
hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ
chưa tràn sang bên cõi Á
Đông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm
trời Trung Hoa và Nam Việt,
thì các chốn thị thành không đông đúc
lắm, các đường sá không mở mang
nhiều, những chốn hoang vu lạnh lẽo
nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà
sự tối tăm cũng lâu hơn sự sáng
sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường;
bới thế nên trong một hoàn
cảnh lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non
sông mà phủ trên cuộc
sinh hoạt của loài ngời, khiến dương khí không có
thể hưng thịnh lên
được.

Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần hăng
hái, nó từ cõi
Âu Tây tràn sang Đông Á, khiến cho các sự vật thay đổi
cả. Máy móc ngày
nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm
thì đèn sáng như
ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có
kèn có trống, có âm
nhạc hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run
rủi, cũng ưa múa may quay
cuồng hoạt động cạnh tranh, hơn là nhàn cư
mà tĩnh dưỡng.

Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi
bạt đi xa. Những linh
hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện
lên được vì khí dương mạnh
quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về
những chốn đồng rừng xa vắng, ở
lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn
hy vọng gì phảng phất ở những đô
thành.

Chả bù với thời thái
bình êm ái thủa xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng
cả, muốn rong chơi
chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn
cản, đánh tan đi.
Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa
nhau mấy: ông Bồ
đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho
truyện Liêu
Trai. Đến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện
hoang đường
vô lý! Cho hay ma cũng có thời!

Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh
phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy
ma hiện hình giữa ban ngày,
trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không
cách xa đô thành phồn
nhiệt mấy. Đó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự
lạ đó, tôi mới chép
nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như
tôi, thưởng thức một
chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn,
quên được cuộc vật lộn
quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để
kiếm cách mưu y mưu
thực.

Thì đây, câu chuyện thần linh.

Hôm đó, cách đây
chừng khoảng hai năm, tôi về vùng Nam Định xuống ga
Gôi, vào thăm một
ngời bạn cũ. Lâu ngày mới gặp được nhau, bạn tôi mừng
lắm, vội vàng
sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người vợ ra chợ đón
mua những
món quà ngon. tôi được thấy bạn cũng mừng, hai anh em ngồi
uống trà
đàm đạo mãi cho tói chiều, không biết mệt.

Lúc ấy, vào khoảng
bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng nực lắm, tuy sắp
sang thu mà cũng
vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên
với bạn đã ba
giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa
đốt, nhưng khi
vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu
sa sầm mặt
lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp
nhau xé
toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng
quang
tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng
chừng
tới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ
lại
tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi
hết
cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang đãng như không; vài
tiếng
sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể oi, không có
vẻ
hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.

Mặt trời , khỏi bị che kín
sau bức màn mây tối, lai vui vẻ tia ra những
luồng ánh sánh đỏ rực
và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa rào, thì
ánh nắng càng nồng
càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ
nhàng. Mưa xuống nắng
lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng
sự đó không xảy ra
trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy
tháng mùa đông rét
mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa
hay có giông tố
thất thường.

Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại
ngùn ngụt bốc cao khỏi
đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề
bực bội, mà khí hậu thì
lại hóa ra độc địa vô cùng.

Những
buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám
chướng,
có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm
hồn.
Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chỗ
thôn
quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một
vùng
nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp
nhoáng
trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự
tụ
đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu
không
có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang
đường.

Hoang
đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.


Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên cớ, nên cũng
phải tạm
liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền
bí do sức
của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng
chất gì, ta
không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng
phảng phất, đằm
như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ
lại theo những luật
riêng óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như
những khói, những
luồng điện trong vũ trụ vậy

Những nhà phù
thủy cao tay, những kẻ thôi miên thiện nghệ phần nhiều
đều luyện được
một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai khiến âm hồn tan
tụ, tỷ nhà
nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại. Nếu ta
cho âm khí
là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió
bấc, mỗi khi
trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện
đó thường
hay tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết
của các
luồng điện trong không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung
chuyển,
xúc động; rồi, khi sấm sét đã nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc
lại
như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.

Vì tình cờ run rủi, tôi đã
được mục kích sự âm hồn hiển hiện, sau một
trận mưa sau một ngày gay
gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi
đương vui vẻ, kể lể
mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như
chợt nghĩ đến sự
gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:

-Bác hây theo tôi,
sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!

Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:

Trời
đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác
muốn chúng ta đi đâu?

- Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ
không phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này
thì uổng quá!

Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng
cũng không dùng
dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi
nhà, lần theo bờ
ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Đến
một nơi cổ am, có
bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn
tôi ra hiệu bảo tôi
ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng
vào gốc cây, nhưng
chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật
thế nào.

Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu nhìn
bốn phía, rồi
ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì.
Một chốc, hình như
anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh
lùi lại, bá vai tôi,
một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:

-
Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven
đồi
, chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ
giữa
một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ dương
oai,
vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...

Trong lúc bạn nói,
tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố phóng luồng nhỡn
tuyến ra mé đồi để
ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng.
Nhưng khốn nạn
cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn
chưa thấy tí
gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi
cây thẫm
biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy
múa
cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát
đầu
anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.

-
Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương
khoai
đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?

Bấy
giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một
vệt
trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên tả. Liền lúc
ấy,
tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng
người
nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:

-Quái! Làm sao nó
không đầu!

Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ
chúng tôi đứng,
bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô
phả vào mặt tôi
rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương
quấn lấy thân tôi, hút
tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự
nhiên bi cuốn lôi lên.
tôi níu chặt lấy bạn.

Một khắc như
thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị
một cảnh
tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như
chớp,
cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng trời. Cơn
gió
lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai,
chiếc
mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi
xuống
đất tỏ rằng cn gió đã tan rồi.

Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng
của hai anh chàng múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã
cười bảo tôi:

-Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt!
Vì anh mà cuộc phô
diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen
khoái trá vô cùng!

- Cớ sao anh lại bảo vì tôi...

- Anh
mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh được mục kích là một
sự lạ
lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của
hai
nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống
nắng
lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ
nhảy
múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà
lại
phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái
cảnh
tượng như hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại
nương
khoai nhặt lấy mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc
múa
võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...

Bạn tôi dìu tôi cùng đi
lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi
quá, tôi đành mất mũ,
không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà
thôi. Bạn cười tôi
là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về
nhà và sai một tên
gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.

Tôi ở nhà bạn non bể,
ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của
mình ngay, nưhng
ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả.
Tôi đã xếp sẵn
những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn
mình tự dặn
mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu" khiến cho
hỏng việc
một lần nữa.

Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi
quấy quả bạn tôi đã
trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào
khoảng chín mười giờ sáng
trời đương nắng chang chang bỗng có cơn
mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt
hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống
dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái miễu
thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã
đến một lần hôm trước.

Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi
tự đứng lên mé trên nhìn phương
hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung
đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi
nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai
cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.

Mới đầu tiên, trông không
được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng
quen càng sáng suốt ra.
Cảnh vật tôi được mục kích thật là kỳ dị , từ
bé đến giờ tôi mới
thấy một sự thú vị như thế này.

Đó chỉ là hai cái bóng, nhưng
quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt
như hai người, có tay chân,
biết cử động, song chỉ không có đầu! Hai
cái bóng ma cụt trốc! Đứng
mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy
không lấy gì làm đích
xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ
thấy lờ mờ hai vệt
xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý
nhìn lâu tý nữa,
thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau
hùng dũng lắm.


Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ
lại. Không
thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo
chẽn mà quần
thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ y phục tôi tưởng
tượng ra, vì tôi
trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng
chập chờn như hai
hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ
quái trạng hiện ra đó,
ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai
bóng ma kia là hai thân
thể vạm vỡ cờng tráng mà cũng lanh lẹn phi
thường. Chúng nó tuy không
đầu, song đánh nhau chả kém gì người có
mắt, lại có phần giỏi giang,
sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.

Chúng
diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô
cùng.
Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng
cúi
xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau
thi
quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn
quyền
học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần,
xuất
chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về
thế
hệ trước, một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ
suy
tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn
để
thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa
lắc
xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài
vào
một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng
của
thủa bình sinh?

Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng
nó xử nhau những miếng
võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải,
Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn
áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa
hồ chúng không có ý làm hại
nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho
thỏa thích, cho bõ nhớ nhung
cái thời oanh liệt chúng đã từng sống,
mà không được sống tới cùng.

Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên
kia, cũng thực là một khoái lạc ý
vi. Trong buổi văn minh ngày nay,
dễ đâu đã có dịp xem hai ngời sử võ?

Giả dĩ có xem xiếc hay xem
tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may
cho qua loa câu chuyện,
mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ
tài quyền cước cho mà
coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi
được trải qua, tôi
ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.

Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm
lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là
kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt
vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương
khoai hiện ra, tuyệt nhiên
không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ
"cụt đầu" nữa! tôi thí
nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ
bỏ ống kính ra thì
tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt,
hình ảnh kia lại
biến lúc nào rồi...

Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao
ống nhòm cho bạn, chỉ đeo
có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại
chân đồi. Cách xa độ bốn cột
đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma
đương đấm đá. Đi thêm lên độ chục
bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần
đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn
cách đồi độ chừng mươi bước, trông
lên chỉ thấy không khí một màu trong
vắt, ruộng khoai một màu vàng
đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.

Cho rằng mắt tôi bị các
âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra
cứ chụp lấy năm sáu
bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi
dợc cảnh thần bí
mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn
bị thất vọng như
thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ
sĩ cả!

Sự
bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức
tối
khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở
cõi
dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ
sang
cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên
cho
loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì
ít
ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!

Tôi
có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử;
bạn
tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc
anh
chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa
vào
lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có
thế
thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi,
càng
gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra
vấn
đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm
gì,
mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ
hiện
lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn
oan
khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu?
Thực
là một sự lạ.

Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc
ngọn, dù phi tốn công
khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi
tự nhận lấy một nhiệm
vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi
phải tin rằng tôi, một kẻ
cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước
muốn những điều vô lý. Làm
gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian
để đem ra ánh sáng một câu
chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn
ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước
Đại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất
Việt Nam này?

Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn
biết vì sao lại có hai
oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là
hiện lên diễn võ. Trước còn
là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục
vọng, sau nữa thành hẳn một
định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như
kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà
toán học chưa tìm ra kết quả một bài
tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả
đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma
không đầu của tôi; rồi tôi lục các
sách trong nhà Bác Cổ để họa may
có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà
võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong
sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về
hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ,
xong chả có pho nào đả động đến hai nhà
thiện xạ chịu tử hình ở mạn
núi Gôi...

Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi
vẫn còn nhớ cảnh vật
tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày
hôm qua vậy. Tôi rất bực
mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài
nào biết thêm tí gì về
quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở
quanh vùng Gôi kể cho tôi
nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không
chuyện nào giống chuyện nào, vì
mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý
riêng mình.

Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên
dục vọng của tôi đi.
Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn
hoa đô thị, lòng tôi lại
càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự
trách mình sao không cố gắng
thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa;
biết đâu trong một pho sách ở viện
bảo tàng, hoặc trong ký ức của một
ông già đã sống thời loạn lạc, lại
không có một vết tích, một dấu
hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để
đi sâu vào câu chuyện huyền bí
của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên
mỗi lần mưa tạnh nắng lên?

Ấy,
cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ
hẳn
nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho
tôi
được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được

gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ
hơn,
khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.


TCHYA


Ma Không Đầu - TCHYA

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Similar topics

-
» Hạt Đồng Giao - TCHYA
» Ai Hát Giữa Rừng Khuya - Tchya
» Ma - Căn nhà không cửa
» Có ma hay không?
» Không kịp nữa rồi

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
FullHouse.yforum.biz :: Thư viện_[F]ull [H]ouse :: Thư viện truyện_[F]ull [H]ouse :: truyện ma_[F]ull [H]ouse-
Chat ( )
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất
Sử dụng mã nguồn vBulletin® Phiên bản 3.8.7
vBCredits I v. 1.5.1 Gold ©2001-2010, PixelFX Studios Ltd.
© 2011 - 2012 Nhóm phát triển website: Cộng đồng giới trẻ Nghệ An.
Phpbb2 - Forumotion!Rip Skin by cubimtq